LỜI VÀNG PHẬT DẠY

Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.

LỜI VÀNG PHẬT DẠY

Khi bạn vui, phải nghĩ rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi bạn đau khổ, bạn hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn.

LỜI VÀNG PHẬT DẠY

Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác.

LỜI VÀNG PHẬT DẠY

Đừng bao giờ lãng phí một giây phút nào để nghĩ nhớ đến người bạn không hề yêu thích.

LỜI VÀNG PHẬT DẠY

Đừng khẳng định về cách nghĩ của mình quá, như vậy sẽ đỡ phải hối hận hơn.

Thứ Năm, 11 tháng 5, 2017

Bằng cách rao bán xác chết, Đức Phật đã khiến nhiều người ngộ ra chân lý sâu sắc

Kinh Pháp Cú kể câu chuyện sau đây: 

Thuở ấy, ở thành Vương xá có một ngưòi kỹ nữ tên là Siri sắc đẹp tuyệt trần, nàng lại hay làm thức ăn dâng cúng cho các vị tỳ kheo đệ tử Phật đi khất thực nữa. 

Phật pháp ứng dụng - phẩm vô thường

Một vị tỳ kheo trẻ tuổi nghe tiếng nàng mới tháp tùng những người hâm mộ nàng, ghé nhà nàng chơi, hôm ấy nàng bệnh nhưng vẫn gắng gượng ra tiếp khách và đem thực phẩm ra cúng duòng. Vị tỳ kheo trẻ nhìn ngắm nàng, thấy rằng dù bệnh nhưng vẻ đẹp thật sắc sảo, bèn khởi tâm yêu mến nàng.

Vài hôm sau Siri trở bệnh nặng rồi chết. Đức Phật yêu cầu mang thi thể nàng Siri ra nghĩa địa nhưng 
khoan mai táng đã, và để trong vòng 3 ngày canh chừng đừng đểthú rừng hay diều hâu đến ăn thịt. 

Đến ngày thứ 4, đức Phật cùng chư Tăng, Vua và các quan cùng dân chúng đi ra nghĩa địa. Vị tỳ kheo trẻ cũng có trong đoàn nhưng chưa biết tin nàng Siri đã chết. Đến nghĩa địa, đức Phật đến gần thi thể nàng Siri và mọi người đứng chung quanh. 

Đức Phật bảo một ngưòi lính xướng lên rằng: ai muốn được ở với nàng Siri một đêm thì chỉ cần trả 100 lạng vàng, rồi 10 lạng vàng  rồi 1 lạng thôi cho đến cho không…; mọi người nhìn thi thể tái nhợt nằm sóng sượt ra đó, chẳng ai buồn đáp, kể cả vị tỳ kheo trẻ tuổi cũng im lặng. 

Bấy giờ đức Phật mới nói: Này chư Tăng, hãy nhìn nàng Siri, trước kia khi còn sống, ai muốn gần nàng một đêm phải trả cả ngàn đồng tiền vàng; nay nàng năm đó, chẳng ai muốn cả, dù chẳng phải tốn kém gì. Thân thể conngười, ai cũng vậy, suy yếu, già lão rồi tàn tạ như vậy thôi! Rồi đức Phật nói lên bài kệ sau đây :

Hãy nhìn thân, bề ngoài xinh xắn
Còn bên trong, một đống vết thương
Gây khổ đau, sao còn vướng bận
Thân này đâu bền vững, hằng thường?
(Pháp Cú, 147)

Phật pháp ứng dụng - Thật vậy,bài học thực tế thật thấm thía, chúng ta cứ o bế tấm thân này, lo ăn ngon mặc đẹp, nhà cao cửa rộng… suốt đời lo kiếm tiền để phục vụ cái thân này… đâu biết rằng thân này vô thường, có đó mất đó, nên cứ chạy theo nó để rồi “tham giận kiêu căng si mê lầm lạc” càng ngày càng xa cái tâm thanh tịnh ban đầu.

Thứ Ba, 9 tháng 5, 2017

Lời phật dạy về việc cúng tổ tiên và ngạ quỷ sao cho đúng pháp

Tôi nghe như vầy:Một thời đức Phật ở trong Ca-lan-đà Trúc viên, thành Vương-xá. Bấy giờ có Phạm chí Sanh Văn  đi đến chỗ Phật, cùng Phật thăm hỏi an ủy xong, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:
“Thưa Cù-đàm! Con có người thân tộc rất thương mến, bỗng nhiên qua đời. Con vì người ấy nên bố thí với tín tâm. Thế nào, bạch Thế tôn, người ấy có nhận được không?

Phật pháp ứng dụng - lời phật dạy về cúng tổ tiên, ngạ quỷ


Phật bảo Bà-la-môn:

“Không phải nhất định phải được.Nếu người thân tộc của ông sinh vào trong địa ngục, nó sẽ ăn thức ăn của chúng sanh địa ngục để nuôi sống sinh mạng của nó, chứ không nhận được đồ ăn thức uống mà ông bố thí với tín tâm. Nếu nó sinh vào súc sanh, ngạ quỷ, hoặc loài người, họ sẽ được đồ ăn thức uống của loài người, không nhận được đồ bố thí của ông.

“Này Bà-la-môn! Trong đường ngạ quỷ có một nơi tên là Nhập xứ ngạ quỷ. Nếu người thân tộc của ông sinh vào trong Nhập xứ ngạ quỷ kia, thì sẽ nhận được thức ăn của ông.”

Bà-la-môn bạch Phật:

“Nếu người thân tộc của con không sinh vào trong đường Nhập xứ ngạ quỷ, thì thức ăn do tín tâm của con bố thí ai sẽ hưởng được?

Phật bảo Bà-la-môn:“Nếu ông với tín tâm bố thí cho người thân tộc, nhưng họ không sinh vào chốn Nhập xứ ngạ quỷ, thì có những thân tộc quen biết khác đã sinh vào trong chốn Nhập xứ ngạ quỷ đó sẽ được hưởng.

Bà-la-môn bạch Phật:“Thưa Cù-đàm! Nếu con vì tín tâm bố thí cho người thân tộc, nhưng họ không sinh vào trong chốn Nhập xứ ngạ quỷ, và cũng không có các thân tộc quen biết khác sinh vào 
chốn Nhập xứ ngạ quỷ, thì thức ăn do lòng tin bố thí đó ai sẽ hưởng?

Phật bảo Bà-la-môn:

“Giả sử ông vì những thân tộc quen biết mà bố thí, nhưng họ không sinh vào trong chốn Nhập xứ ngạ quỷ, và lại cũng không có những người quen biết khác sinh vào chốn Nhập xứ ngạ quỷ, thì việc bố thí do lòng tin, tự mình sẽ được phước.Của bố thí do lòng tin của người thí chủ đó, sẽ không mất đạt-sấn
Bà-la-môn bạch Phật:
“Thế nào là thí chủ hành thí, để người bố thí được đạt-sấn kia ?

Phật bảo Bà-la-môn:

“Có người sát sanh, làm những việc ác, tay thường tanh máu, tâm thường suy nghĩ đến đánh đập, sát hại, không hổ, không thẹn, tham lam, keo kiệt. Đó là nghiệp ác sát sinh.

“Có người lấy của không được cho; đối với tài vật, làng xóm, đất trống của người, cũng không xa lìa trộm cắp.

“Có người tà dâm; đối với những người được bảo hộ bởi cha mẹ, anh em, chị em, phu chủ, thân tộc cho đến người trao vòng hoa, mà dùng sức cưỡng bức, làm mọi việc tà dâm, không lìa bỏ tà dâm.

“Có người nói dối không chân thật: Hoặc ở chốn vua quan, các nhà nói chơn thật, nơi có nhiều người tụ tập cần lời nói thích đáng, nhưng lại nói lời không thật; không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, không nghe nói nghe, nghe nói không nghe; biết nói không biết, không biết nói biết. Vì chính mình, vì người khác, hoặc vì tài lợi, biết mà nói dối không chịu lìa bỏ nói dối.

“Có người hoặc nói hai lưỡi, gây chia lìa; đem chuyện chỗ này đến nói chỗ kia, đem chuyện chỗ kia đến nói chỗ này, phá hoại lẫn nhau, làm cho tan rã sự hòa hợp, khiến kẻ ly gián vui mừng.

“Có người nói lời thô ác, mắng nhiết. Có những lời nói dịu dàng, êm tai, làm vui lòng, rõ ràng dễ hiểu, lời nói được ưa nghe, được nhiều người yêu mến, hợp ý, tùy thuận tam-muội. Xả bỏ những lời như vậy mà nói lời gắt gao, cộc cằn, bị nhiều người ghét, không ưa, không hợp ý, không thuận tam-muội. Nói những lời như vậy, không lìa bỏ lời nói thô. Đó gọi là ác khẩu.

"Có người nói lời thêu dệt bại hoại, nói không đúng lúc, nói không thực tế, lời nói vô nghĩa, lời nói phi pháp, lời nói thiếu suy nghĩ. Nói những lời hư hỏng như vậy.

“Có người không lìa bỏ tham lam; đối với tài vật người khác khởi tham dục, nói rằng ‹Nếu ta có vật này thì rất tốt.

“Có người không xả bỏ sân nhuế tệ ác; trong tâm suy nghĩ, ‹chúng sanh kia đáng bị trói, đáng bị roi vọt, gậy gộc, đáng giết, muốn cho nó khó sống.

“Có người không bỏ tà kiến; có quan điểm điên đảo như vầy: ‹Không có bố thí, không có quả báo, không có phước, không có điều thiện điều ác, không có nghiệp thiện ác và quả báo, không có đời này, đời khác, không có cha mẹ, không có chúng sanh hoá sanh; thế gian không có A-la-hán, không có các vị chánh hành, chánh hướng mà trong đời này hay đời khác, tự biết, tự mình chứng nghiệm rằng, Ta, sự sinh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sinh đời sau nữa.
“Đó gọi mười nghiệp bất thiện.“Sau lại bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, ... cho đến những kẻ ăn xin bần cùng, đều bố thí tiền tài, áo quần, chăn mền, đồ ăn thức uống, đèn đuốc, những vật dụng trang nghiêm.
“Này Bà-la-môn! Thí chủ kia nếu lại phạm giới, sinh trong loài voi; nhưng vì người ấy đã 
từng bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn tiền của, áo quần, chăn mền, đồ ăn thức uống cho đến những vật dụng trang nghiêm, nên tuy ở trong loài voi, cũng nhận được phước báo nhờ đã bố thí, từ quần áo, đồ ăn thức uống cho đến những vật dụng trang nghiêm.
“Nếu lại sinh vào các loài súc sanh như trâu, ngựa, lừa, la v.v... nhưng cũng nhờ vào công đức thí ân trước, nên sẽ nhận được phước báo kia tùy theo chỗ sinh tương ứng 
mà được thọ dụng.
“Này Bà-la-môn! Nếu thí chủ kia lại trì giới, không sát sinh, trộm cướp, ... cho đến chánh kiến, và bố thí cho các Sa-môn, Bà-la-môn, ... cho đến những kẻ ăn xin nào là tiền của, áo quần, đồ ăn thức uống, đèn đuốc, thì nhờ công đức này mà sinh trong loài người, ngồi hưởng thụ phước báo này, từ áo quần, đồ ăn thức uống ... cho đến những vật dụng như đèn đuốc.
“Lại nữa, này Bà-la-môn! Nếu người ấy lại trì giới, thì sẽ được sinh lên cõi trời, vì nhờ vào 
những thí ân nên được hưởng những thứ phước báo về tài bảo, áo quần, đồ ăn thức uống, ... cho đến những vật dụng trang nghiêm cõi trời.
“Này Bà-la-môn! Đó gọi là người bố thí hành thí; khi người bố thí thọ nhận đạt-sấn, quả báo không mất.”
Sau khi Bà-la-môn Sanh Văn nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

Xem thêm: phật pháp ứng dụng -Đừng chê ai hết

Thứ Hai, 8 tháng 5, 2017

Phật pháp ứng dụng: Lời Phật dạy tinh yếu về kiếp nhân sinh mà ai cũng nên biết

1. GIÀ, BỆNH, CHẾT (1)

(1) Già và chết 
Lời Phật dạy về kiếp nhân sinh

Ở tại Sāvatthī (Xá-vệ). Ngồi một bên, vua Pasenadi (Ba-tư- nặc) nước Kosala (Kiều-tất-la) bạch Thế Tôn:
 – Bạch Thế Tôn, có cái gì sinh mà không già và không chết?
 – Thưa Ðại vương, không có cái gì sinh mà không già và không chết. Thưa Ðại vương, dù cho những vị sát-đế-lỵ đại phú có tài sản lớn, có nhiều vàng bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc. Vì các vị ấy có sinh nên không thoát khỏi già và chết.
- Thưa Ðại vương, dù cho những vị bà-la-môn đại phú,... dù cho những gia chủ đại phú, có tài sản lớn, có nhiều vàng bạc, có nhiều tài sản vật dụng, có nhiều tiền của, ngũ cốc. Vì các vị ấy có sinh nên không thoát khỏi già và chết.
- Thưa Ðại vương, cho đến các vị tỳ-khưu, những bậc A-lahán, đã đoạn tận các lậu hoặc, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích tối hậu, đã đoạn được hữu kiết sử, đã được giải thoát nhờ chánh trí, cho đến thân này của các vị ấy cũng phải bị hủy hoại, cũng phải bị từ bỏ. 

Xe vua dù mỹ diệu, 
Rồi cũng phải hư hoại,
Thân thể này cũng vậy, 
Rồi cũng phải già yếu.
Chỉ thiện pháp không già, 
Bậc thiện nhân nói vậy.

(3) Thiên sứ 
– Có ba thiên sứ này, này các tỳ-khưu, Thế nào là ba? 
Ở đây, này các tỳ-khưu, có người thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Sau khi thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, khi thân hoại mạng chung, người ấy sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. 
Rồi những người lính địa ngục với hai cánh tay bắt người ấy dẫn đến vua Yama (Dạ-ma, Diêm vương) và thưa:
 – Thưa Ðại vương, người này không kính mẹ, không kính cha, không kính sa-môn, không kính bà-la-môn, không tôn kính các bậc lớn tuổi trong gia đình, Ðại vương hãy trừng phạt nó. 

Rồi vua Yama chất vấn người ấy, cật vấn, nạn vấn người ấy về thiên sứ thứ nhất: 

– Này người kia, người có thấy vị thiên sứ thứ nhất hiện ra giữa loài người không? 
Người ấy trả lời: 
– Con không thấy, thưa ngài 
Rồi vua Yama nói với người ấy:
 – Này người kia, ngươi có bao giờ thấy giữa loài người, một người đàn bà hay đàn ông tám mươi tuổi, hay chín mươi tuổi, hay một trăm tuổi, già yếu, cong như nóc nhà, lưng còm, chống gậy, vừa đi vừa run rẩy, bệnh hoạn, tuổi trẻ đã tận, răng rụng tóc bạc, hư rụng, sói đầu, da nhăn, đầu rung, tay chân da mồi khô đét? 
Người ấy nói như sau: 
– Thưa Ngài, con có thấy. 
Rồi vua Yama nói với người ấy như sau:  
– Này người kia, với ngươi là người có trí và lớn tuổi, ngươi có nghĩ rằng: Ta rồi cũng bị già, ta không vượt qua tuổi già. Vậy ta hãy làm điều lành, về thân, về lời nói, về ý? 
Người ấy nói như sau: 
– Không, thưa Ngài, con không có làm. Thưa Ngài, con phóng dật. 
Rồi vua Yama nói với người ấy: 
– Này người kia, chính vì do phóng dật, ngươi đã không làm các điều lành về thân, về lời nói, về ý. Thật vậy, này người kia, chúng sẽ làm cho ngươi, đúng theo sự phóng dật của ngươi. Ác nghiệp ấy của ngươi, không phải mẹ làm, không phải cha làm, không phải anh làm, không phải chị làm, không phải bạn bè thân hữu làm, không phải bà con huyết thống làm, không phải chư thiên làm, không phải sa-môn làm, bà-la-môn làm. Ác nghiệp ấy chính do ngươi làm và ngươi sẽ thọ lãnh quả dị thục của ác nghiệp ấy. 

Rồi vua Yama sau khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị thiên sứ thứ nhất, liền chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị thiên sứ thứ hai: 

– Này người kia, người có thấy vị thiên sứ thứ hai hiện ra giữa loài người không? 
Người ấy trả lời: 
– Con không thấy, thưa ngài Rồi vua Yama nói với người ấy: 
– Này người kia, ngươi có bao giờ thấy giữa loài người, một người đàn bà hay một người đàn ông, bệnh hoạn khổ não nguy kịch, rơi nằm trong tiểu tiện, đại tiện của mình, cần người khác nâng dậy, cần người khác dìu nằm xuống? 
Người ấy nói như sau: 
– Thưa Ngài, con có thấy. 
Rồi vua Yama nói với người ấy như sau: 
 – Này người kia, với ngươi là người có trí và lớn tuổi, ngươi có nghĩ rằng: Ta rồi cũng bị bệnh, ta không vượt qua bệnh hoạn. Vậy ta hãy làm điều lành, về thân, về lời nói, về ý? 
Người ấy nói như sau: 
– Không, thưa Ngài, con không có làm. Thưa Ngài, con phóng dật. 
Rồi vua Yama nói với người ấy: 
– Này người kia, chính vì do phóng dật, ngươi đã không làm các điều lành về thân, về lời nói, về ý. Thật vậy, này người kia, chúng sẽ làm cho ngươi, đúng theo sự phóng dật của ngươi. Ác nghiệp ấy của ngươi, không phải mẹ làm, không phải cha làm, không phải anh làm, không phải chị làm, không phải bạn bè thân hữu làm, không phải bà con huyết thống làm, không phải chư thiên làm, không phải sa-môn làm, bà-la-môn làm. Ác nghiệp ấy chính do ngươi làm và ngươi sẽ thọ lãnh quả dị thục của ác nghiệp ấy. 

Rồi vua Yama, sau khi chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị thiên sứ thứ hai, liền chất vấn, cật vấn, nạn vấn người ấy về vị thiên sứ thứ ba: 

– Này người kia, người có thấy vị thiên sứ thứ ba hiện ra giữa loài người không? 
Người ấy trả lời: 
– Con không thấy, thưa Ngài. 
Rồi vua Yama nói với người ấy: 
– Này người kia, ngươi có bao giờ thấy giữa loài người, một người đàn bà hay một người đàn ông, chết đã được một ngày, hay chết được hai ngày, hay chết được ba ngày, sưng phù lên, xanh xám lại và nát rữa ra?
Người ấy nói như sau: 
– Thưa Ngài, con có thấy. Rồi vua Yama nói với người ấy như sau:
-Này người kia, với ngươi là người có trí và lớn tuổi, ngươi có nghĩ rằng: Ta rồi cũng bị chết, ta không vượt qua sự chết. Vậy ta hãy làm điều lành, về thân, về lời nói, về ý?
 Người ấy nói như sau: 
– Không, thưa Ngài, con không có làm. Thưa Ngài, con phóng dật.
 Rồi vua Yama nói với người ấy: – Này người kia, chính vì do phóng dật, ngươi đã không làm các điều lành về thân, về lời nói, về ý. Thật vậy, này người kia, chúng sẽ làm cho ngươi, đúng theo sự phóng dật của ngươi. Ác nghiệp ấy của ngươi, không phải mẹ làm, không phải cha làm, không phải anh làm, không phải chị làm, không phải bạn bè thân hữu làm, không phải bà con huyết thống làm, không phải chư thiên làm, không phải sa-môn làm, bà-la-môn làm. Ác nghiệp ấy chính do ngươi làm và ngươi sẽ thọ lãnh quả dị thục của ác nghiệp ấy.

Xem thêm: phật pháp ứng dụng - Cái gì rồi cũng đến, đến rồi qua, qua rồi mất

Kinh 42 Chương ( Phần 1)

Kinh 42 Chương

CHƯƠNG 1 XUẤT-GIA, CHỨNG QUẢ 

Phật dạy: “Từ biệt người thân đi xuất gia, nhận thức được tâm, thấu suốt được cội gốc và hiểu rõ được pháp vô vi, mới gọi là “Sa môn”. Vị Sa môn thường giữ hai trăm năm mươi giới, khi tiến, khi ngưng, đều ở trong niệm thanh tịnh và thực hành đạo hạnh của bốn chân đế, để thành bốn Thánh quả như bậc A La Hán v.v... A La Hán (Arahat) là vị tu chứng có thể phi hành, biến hóa, kéo dài thọ mệnh nhiều kiếp và khi an trụ có thể làm rung chuyển trời đất. Thứ đến, A Na Hàm (Angàmi). A Na Hàm là vị tu chứng, sau khi mất, linh thần sinh lên cõi trời thứ mười chín, chứng quả A La Hán. Thứ đến,Tư Đà Hàm (Sakrdàgàmi). Tư Đà Hàm là vị tu chứng, chỉ còn một lần sinh lên cõi trời và một lần trở lại cõi người trong Dục giới là chứng được quả A La Hán. Thứ nữa là Tu Đà Hoàn (Sotàpanna-phala). Tu Đà Hoàn là vị tu chứng còn phải bảy lần sinh, bảy lần tử nữa, mới chứng được quả A La Hán. Chặt đứt ái dục như chặt tứ chi, không dùng gì nữa, (tức là vượt khỏi luân hồi)

CHƯƠNG 2 ĐOẠN DỤC TUYỆT CHỨNG

 Phật dạy: “Bậc Sa môn xuất gia, dứt tham dục, bỏ ái nhiễm, biết nguồn tâm của mình, suốt lý sâu của Phật, ngộ pháp vô vi; bên trong, không có chỗ nào gọi là chứng đắc; bên ngoài, không có chỗ nào gọi là cầu được; tâm không hệ thuộc với đạo và cũng không kết nghiệp, không suy niệm, không tạo tác, chẳng phải tu, chẳng phải chứng, không trải qua các quả vị mà tự thể nhập diệu quả cao thượng, đó gọi là “đạo”. 

CHƯƠNG 3 CẮT ÁI BỎ THAM 

Phật dạy: “Cắt bỏ râu tóc, làm bậc Sa Môn lĩnh thụ đạo pháp, bỏ của cải thế gian, cầu xin lấy đủ: giữa ngày một bữa ăn, một giấc ngủ dưới gốc cây, và thận-trọng, không dám ham muốn đến hai lần. Vì, ái và dục làm cho người ta ngu mê vậy”.

CHƯƠNG 4 THIỆN, ÁC ĐỀU RÕ 

Phật dạy: “Chúng sinh lấy mười việc làm thiện và, cũng lấy mười việc làm ác. Những gì là mười? - Thân ba việc. Miệng bốn việc. Ý ba việc. Ba việc của thân là: sát, đạo, dâm. Bốn việc của miệng là: hai lưỡi, ác khẩu, nói dối và nói thêu dệt. Ba việc của ý là: tham, sân, si. Mười việc như thế không thuận Thánh đạo, gọi là mười hạnh ác. Việc ác ấy nếu ngưng chỉ, thì gọi là mười hạnh thiện”.

 CHƯƠNG 5 CHUYỂN NẶNG THÀNH NHẸ 

Phật dạy: “Người ta có những tội lỗi mà không biết tự hối, sớm dứt tâm tội lỗi ấy đi, thì tội lỗi sẽ tới mình, như nước chảy về biển, dần dần thành sâu rộng. Nếu người ta có tội lỗi, tự biết là trái, đổi ác làm lành tội tự tiêu diệt, như người đau, được mồ hôi xuất ra, dần dần được giảm bớt”.



Thứ Tư, 14 tháng 9, 2016

Đừng chê ai hết


1. Ngó thấy lỗi người thật dễ, nhìn lỗi mình mới khó. Câu này nghe quen quen nhưng ta cứ... quên quên hoài, nên ta cứ hoài nói lỗi, chê bai hết người này tới người nọ, hết tổ chức này tới đất nước kia.
Chê là một tập khí dễ vận hành hơn khen, thừa nhận những giá trị của người khó hơn là tìm ra lỗi (dù nhỏ nhất, khó thấy nhất). Tất nhiên, nếu chúng ta hành xử theo tập khí này thì chắc chắn ta cũng sẽ bị đối lại như thế, trong trường hợp tương tự hoặc một trường hợp khác.

 Làm người vì thế cứ phải... đấu đá nhau, để rồi lấy đi hạnh phúc của mình, của người mà cứ nghĩ như thế mới đem tới hạnh phúc hoặc bảo vệ những thành quả mà mình đang có.

Hôm qua, hôm kia gì đó, tôi đọc được đoạn ngắn trên Facebook của đồng đạo, câu chuyện kể rằng, có người hỏi vị thiền sư, làm hại người khác có tội không? Thiền sư trả lời: không.



Người đó thắc mắc quá, hỏi, làm hại người khác mà không tội, kỳ vậy? Thiền sư đáp, tội phước trong Phật giáo - trong đôi mắt của người học Phật không phải là quyền năng ban tặng hay trừng trị, vì tội phước được quy về chỗ nhân quả. Anh hại người thì anh gieo nhân xấu, anh sẽ chịu quả xấu theo tiến trình nhân quả của riêng anh, không ai có quyền bắt anh phải chịu hay không ai có quyền xóa nhân đó cho anh cả, nên trả lời không có tội là vì vậy.

2. Bạn tôi hồi tối nhắn tin, nói, tớ nghĩ kỹ rồi, điều tuyệt vời nhứt của một con người là mình nhận ra được cái sai, cái dở của bản thân để sửa chứ không phải mình sẽ làm cho mọi người thấy mình tốt đẹp như thế nào.

Câu ấy thật hay nếu mình đọc cho kỹ. Thực ra, mỗi ngày và mỗi người chúng ta đang diễn vai tốt đẹp cho mọi người thấy hơn là chỉnh sửa từ bên trong. Quan trọng là nhận ra những điểm chưa tốt của mình để mình thực sự tốt lên dù cho họ có nhận ra hay không. Diễn cho người ta hiểu mình tốt là ta đang cố tốt, biểu hiện (khoe) cái tốt cho người ta thấy mà không dám nói cái chưa tốt để sám hối là ta đang chạy theo tiếng khen, không dám đối mặt với sự thật cái dở còn đó trong mình - thì ngay đó ta đã không tốt rồi.

Cái đó là giả vờ có đạo đức, một kiểu bị kẹt mà hầu như ai cũng mắc phải, trong đó có người viết những dòng này. Tôi vẫn còn tham, vẫn còn sân, còn si mê dữ lắm. Nói thế để biết mình còn dở, như đứa em của tôi nói với tôi hồi chiều này: thiệt sự em vẫn còn háo sắc lắm!

Đó là một lời bộc bạch chân thành, một sự giãi bày để người kia hiểu được mình và thương mình, có cơ hội sẽ giúp mình, nâng đỡ mình.

3. Thật thà mà nói, tôi là người còn nhiều tham-sân-si, còn dính mắc đủ thứ trên trời dưới đất, còn buông lung, còn nghĩ, làm những điều mà nếu có một máy quay ghi lại hết tất cả thì... chắc kỳ cục lắm. Tôi đang cố gắng để sửa dần, bỏ bớt, để xin được làm người hiền.

Thầy dặn, đừng có chê ai hết nghe. Chê người khác là đem cái xấu bỏ vô tàng thức của mình, đem năng lượng không hay về tưới tẩm hạt giống tương tự trong ta. Điều này rất đúng, nói theo kiểu dân gian là “nói trước bước không khỏi”, nghĩa là ta sẽ vấp lại cái ta đã chê, đã nói người khác.

Họa tùng khẩu xuất còn ở chính nghĩa này - cái nghĩa ta sẽ rơi vào tình huống khóc dở khi ta mở miệng ra là lên mặt chê trách đủ thứ chuyện, với tất cả mọi người... Nhớ thế để tịnh ý, tịnh khẩu thì nhìn đâu cũng sẽ tịnh hết, cũng thấy được cái dễ thương của đất trời, cây cỏ và muôn loại. Được vậy thì ta sẽ kết thiện duyên, trở thành thân bằng quyến thuộc của số đông, ngược lại thì thành chống báng, thành oán thù.

Xem thêm: phật pháp ứng dụng - Học cách hiểu thất bại

Phật pháp nhiệm màu: Phải chăng cuộc đời đã được lập trình sẵn?

Lập trình mà không phải lập trình, đây là một cách lập trình rất kỳ lạ: chỉ lập trình trên nguyên lý thôi còn ứng dụng thì tự do chọn lựa của mỗi người. Ngược lại dù tự do chọn lựa nhưng cuối cùng vẫn phải học ra sự vận hành theo nguyên lý của pháp chứ không phải muốn gì theo ý mình cũng được. Rốt cuộc chọn lựa đường nào rồi cũng phải học cho ra nguyên lý của pháp mới thôi.



HỎI: Thưa Thầy phải chăng cuộc đời đã lập trình sẵn?

TRẢ LỜI: Cuộc đời không phải đã được lập trình sẵn nhưng nó giống như một bàn cờ mà thành hay bại, khổ hay vui... là do quyết định của người trong cuộc đi quân cờ nào, chọn nước cờ nào, với mục đích gì... (có nhiều quân cờ, nước cờ và mục đích để mỗi người tự do lựa chọn) tuỳ theo khả năng hay trình độ nhận thức và cách xử lý trong ván cờ của mình.

Nói là lập trình sẵn cũng đúng nhưng không nên nghĩ rằng ai đó đã an bài sẵn như định mệnh mà mình phải tuân theo. Lập trình sẵn ở đây chỉ có nghĩa là có sẵn những yếu tố tự nhiên, ví dụ như trong thiên nhiên đã có sẵn hydrogen, oxygen, carbonic v.v..., nhưng tuỳ hiểu biết tính chất của các nguyên tố ấy mà có thể tạo ra những phản ứng hoá học khác nhau để có những hiệu ứng nhất định tuỳ mục đích sử dụng của mỗi người.

Dễ hiểu hơn như chúng ta có sẵn rau, củ, quả, gia vị mặn, ngọt, chua, cay v.v... nhưng ai thông hiểu được tính vị của chúng thì có thể chế biến thành những món ăn ngon, không biết chế biến sẽ ra món ăn dở. Như vậy thức ăn ngon dở không phải do Tạo Hoá lập trình sẵn mà do nhận thức và cách chế biến của người nấu.

Lập trình mà không phải lập trình, đây là một cách lập trình rất kỳ lạ: chỉ lập trình trên nguyên lý thôi còn ứng dụng thì tự do chọn lựa của mỗi người. Ngược lại dù tự do chọn lựa nhưng cuối cùng vẫn phải học ra sự vận hành theo nguyên lý của pháp chứ không phải muốn gì theo ý mình cũng được. Rốt cuộc chọn lựa đường nào rồi cũng phải học cho ra nguyên lý của pháp mới thôi.

HỎI: Có đôi khi những giấc mơ như báo hiệu chính xác điều sắp xảy ra. Vậy có phải là mọi việc đã sắp đặt sẵn rồi sao?

Không phải sắp đặt sẵn mà giống như trái mít đang được 1 tháng người trồng mít rành nghề có thể biết bao lâu nữa trái mít ấy sẽ chín vì nó có tiến trình của nó, nhưng trong đó vẫn có sự uyển chuyển mà người càng rành rẽ càng đoán trúng chừng đó. Nếu như trời nắng nhiều thì trái mít sẽ chín sớm, trời lạnh quá thì mít sẽ chín trễ hơn, người ta có thể nhìn qua tất cả hiện tượng thiên nhiên mà biết được sự vận hành của vạn pháp. Cho nên người ta có thể dự đoán thời tiết...mà trong dịch lý gọi là "lý sương kiên băng chí" tức nhìn thấy sương mà biết sắp tới sẽ có băng giá. Những người đi làm rừng thấy măng mọc như thế nào đoán được năm đó có lũ lụt lớn hay không, hoặc thấy hoa lau nở ra sao mà đoán được thời tiết sắp xãy ra rất chính xác, như kiểu kiến đoán được trời mưa, cá đoán được động đất dưới biển vậy.

Trong “lập trình” của tạo hoá có những nguyên lý phổ quát quy mô lớn như thành - trụ - hoại - không; quy mô vừa như sinh - trụ - dị - diệt; quy mô nhỏ như sinh - lão - bệnh - tử. Nhân quả, nghiệp báo cũng có quy luật của nó nên những vị có thiên nhãn minh có thể biết được người nào làm hạnh nghiệp gì sẽ gánh chịu hậu quả ra sao, ở cõi giới nào. Nghiệp được mỗi người tự do chọn lựa nhưng chọn lựa nào thì cũng đều phải học bài học trong chọn lựa của mình.

Về phương diện tâm, phần tướng biết của tâm qua lục căn chỉ biết được đối tượng hiện khởi, nhưng tánh biết của tâm có thể biết được thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai và không gian vô tận bên trong, bên ngoài, tám hướng, mười phương. Bản chất của tâm rộng lớn bất tận về cả không gian và thời gian nên việc linh cảm được chuyện sắp xãy ra ở tương lai hoặc chuyện đang diễn biến ở cõi giới khác là chuyện bình thường. Ví như nước và sóng, tánh biết như nước, tướng biết như sóng, sóng tuỳ duyên mà biểu hiện khác nhau nhưng tánh nước không thay đổi. Nước thì ở cùng khắp nhưng hiện tướng như hơi, sương, mù, mây, mưa, nước giếng, nước sông, ao, hồ, biển cả… đều khác nhau.

Cũng vậy, tướng của tâm chỉ giới hạn trong mỗi chúng sanh, nhưng tánh của tâm rộng lớn vô cùng nên người ta thường gọi là vũ trụ tâm. Người thoát khỏi bãn ngã, thâm nhập vào được biển tâm rộng lớn có thể thấy quá khứ, tương lai và không gian rộng lớn. Như Đức Phật có thể ngồi ở chùa Kỳ Viên mà thấy được các cõi trời ra sao, thấy luôn cả quá khứ, tương lai ra sao.

Đôi lúc chúng ta vô tình cảm ứng được tương lai, nhất là qua giấc chiêm bao, lúc đó ý thức của tướng biết không hoạt động, nhưng tánh biết của tâm thì vẫn âm thầm làm việc. vì vậy mà nó vẫn biết được quá khứ tương lai, thậm chí linh cảm được những chuyện xãy ra bên ngoài.

Tâm rất kỳ diệu mà chưa môn tâm lý học nào nói hết được, kể cả Vi Diệu Pháp hoặc Duy Thức. Có những trường phái thấy tâm như vậy sinh ra chủ nghĩa duy tâm và cho rằng tất cả do tâm tạo ra hết. Thật ra, sự sống không phải chỉ có tâm không thôi mà còn có đất nước lửa gió hư không nữa. Những nguyên tố đó kết hợp với nhau sinh ra muôn loài vạn vật. Hiện tướng của muôn loài vạn vật thì có sinh có diệt, nhưng tánh của chúng vẫn không sinh diệt.

Đạo Phật nhìn sự vật một cách toàn diện cả mặt tất định, mặt tự do và cả mặt ngẫu nhiên nữa. Trong khi một số tôn giáo, triết học chỉ nhìn thấy một chiều nên họ chủ trương hoặc là định mệnh, hoặc là tự do, hoặc là ngẫu nhiên một cách phiến diện.

HỎI: Những yếu tố này có liên quan gì trong Thiên thời, địa lợi, nhân hòa?

Đó chỉ là duyên bên ngoài giúp đạt đến thành công. Trong Phật giáo có Tứ Như Ý Túc: dục, cần, tâm và thẩm là những yếu tố bên trong làm nhân quyết định sự thành công. Trong khi thiên thời, địa lợi, nhân hòa có vẻ thụ động vì lệ thuộc vào điều kiện trời đất và lòng người thì Tứ Như Ý Túc mang tính chủ động của thái độ nội tâm.

Thí dụ như trong chiến tranh bên nào biết lợi dụng điều kiện thiên thời, địa lợi và lòng người thì có hy vọng chiến thắng, như vậy chiến thắng vẫn một mặt mang tính thiên định, một mặt do quyết định của con người nên mới có câu: “Thuận thiên lập mệnh”. Vì nhiều người không thấy được điều này nên khi thành công cứ tưởng là mình tài giỏi và sinh ngã mạn, tự cao.

2. Đạo có phải là con đường? 

Đạo không phải là con đường. Đạo trong Đạo đế là những yếu tố giác ngộ ra Sự Thật mà sự thật rốt ráo nhất chính là Niết Bàn. Nếu có con đường thì phải có điểm xuất phát và đích đến như vậy đã có ham muốn trở thành, tức rơi vào hữu, tướng, tác, cầu hay sinh, hữu, tác, thành, chứ không phải là Đạo: không, vô tướng, vô tác, vô cầu hay không sinh, không hữu, không tác, không thành.

Niết-bàn ở ngay đây và bây giờ nơi chính mình nên đức Phật dạy chỉ cần nhìn lại mà thấy chứ không phải trở thành hay đạt tới.

Hòa thượng Viên Minh chia sẻ trong buổi Trà Đạo Bửu Long sáng ngày 25.8.2016
Như Tuệ ghi chép

Xem thêm: Phật pháp ứng dụng - Lời Phật dạy về khổ đau và hạnh phúc

Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016

Lời dạy của Đức Phật về khổ đau và hạnh phúc

Mở đầu, chúng tôi xin dẫn đại ý ba câu kinh Pháp cú sau đây, vừa như lời cầu chúc đầu năm chúng tôi gởi đến quý Phật tử, vừa hy vọng mọi người chúng ta sẽ nhận ra những lời dạy hết sức giản dị nhưng vô cùng thâm thúy của bậc Đạo sư nói về một nếp sống hạnh phúc an lạc thật sự giữa cuộc đời:
“ Vui thay chúng ta sống, không tham giữa cuộc đời đầy tham;
Vui thay chúng ta sống, không sân giữa cuộc đời đầy sân;
Vui thay chúng ta sống, không mê lầm giữa cuộc đời mê lầm.”


Ba câu Pháp cú trên đây là lời khuyên của đức Phật dành cho tất cả chúng ta, một lời khuyên, đúng hơn, một lời cổ vũ động viên mọi người từ bỏ tham sân si để được hạnh phúc an lạc. Lời khuyên này cũng xác chứng rất rõ quan điểm của đức Phật về hạnh phúc ở đời, nghĩa là một nếp sống xa lìa tham sân si.
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngòai việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc. Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực và sâu sắc đối với cuộc sống con người, bởi Ngài không dạy gì ngoài sự khổ và phương pháp diệt khổ. Chúng ta có thể nói rằng bao lâu con người còn lo lắng, còn ưu tư phiền muộn khổ đau bởi “đã mang lấy nghiệp vào thân”, như Nguyễn Du đã nói, thì lời dạy của đức Phật sẽ là phương thuốc hiệu nghiệm giúp con người thoát khỏi nghiệp chướng khổ đau ấy.
Cuộc sống, như chúng ta thấy ngày nay, đang biểu lộ tất cả những gì gọi là đẹp đẽ nhất, văn minh nhất của lịch sử loài người. Nhưng chính trong cuộc sống được xem là đẹp đẽ và văn minh ấy chúng ta cũng chứng kiến không ít các thảm cảnh đau lòng và những biểu hiện đáng lo ngại. Tình trạng suy giảm đạo đức và bạo động gia tăng đáng kể trong các xã hội hiện đại, chiến tranh khủng bố diễn tiến không dứt giữa các quốc gia và các khối chủ nghĩa, thiên tai lũ lụt động đất xảy ra hầu như khắp nơi trên thế giới. Có quá nhiều sự kiện bất ổn xảy ra trên thế giới khiến con người cảm thấy hình như bất lực trước số phận đau thương của chính mình. Ngày nay con người được bảo hộ và trang bị mọi thứ, kiến thức cũng như nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại, nhưng cảm giác bất an vẫn canh cánh trong lòng. Đời sống vật chất của con người ngày càng sung mãn nhưng tâm lý thì đầy lo âu sầu muộn. Thật là một nghịch lý.
Đứng trước hiện trạng vừa mừng vừa lo ấy, đạo Phật có chia sẻ được gì cho con người và cuộc đời? Nói khác đi, những lời dạy của đức Phật có giúp cho con người thoát khỏi thực trạng đầy lo lắng khổ đau đang diễn ra mọi lúc mọi nơi trên cuộc đời mà con người là tác nhân và chịu trách nhiệm lớn về mọi thứ? Tìm ra câu trả lời cho vấn đề này tức là hiểu được đạo Phật, hiểu được mục đích của đạo Phật, hiểu được giá trị thiết thực của đạo Phật đối với cuộc sống. Bởi đức Phật ra đời vì hạnh phúc an lạc cho chúng sinh và Ngài thuyết pháp là nhằm giải thoát khổ đau cho cuộc đời.
Chúng ta sẽ lần lượt tìm xem câu trả lời của đức Phật cho vấn đề này.
Trước hết, đức Phật xác nhận rất rõ về con người và vai trò của con người ở trên đời. Ngài dạy: “Người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp”.
Nghiệp ở đây là hành động có chủ ý. Con người là chủ nhân của nghiệp, nghĩa là con người làm chủ các hành vi của mình; là kẻ thừa tự của nghiệp, tức con người phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình. Như vậy, đức Phật quan niệm con người là sinh vật hành động và Ngài đánh giá cao hành động của con người, xem hành động là yếu tố quyết định vận mệnh của con người. Nói khác đi, con người phải chịu trách nhiệm về số phận của chính mình; số phận ấy tốt hay xấu đều tùy thuộc vào nghiệp hay hành động của con người.
Bước tiếp theo, đức Phật xác định rõ về ba loại nghiệp hay hành động gồm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, trong đó ý nghiệp đóng vai trò quan trọng, và về hai phương diện thiện ác của nghiệp nhằm chỉ rõ thiện nghiệp đưa đến hạnh phúc an lạc, trong khi ác nghiệp mang bất hạnh khổ đau đến cho con người. Ngài dạy:
“Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo tác. Nếu người ta nói năng hay hành động với tâm ý ô nhiễm thì đau khổ sẽ kéo theo sau, giống như chiếc xe lăn theo vết chân con bò kéo. Nếu với ý trong sạch mà nói năng hay hành động thì an lạc sẽ bước theo sau, giống như bóng không rời hình.”1
Ý ô nhiễm ở đây tức là một tâm tư đổ đầy tham sân si, và lời nói hay hành động xuất phát từ một tâm đầy tham sân si như vậy tức sẽ dẫn đến bất hạnh đau khổ. Ý trong sạch tức một tâm tư không có tham sân si, và lời nói hay việc làm bắt nguồn từ một tâm không tham sân si thì sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc.
Đến đây ta có thể nêu thắc mắc: Vậy tham sân si là gì mà một ý nghĩ, lời nói hay hành động đổ đầy tham sân si lại dẫn đến khổ đau, trong khi một ý nghĩ, lời nói hay hành động không có tham sân si thì đưa đến an lạc?
Tham là một hiện tượng tâm lý xuất hiện khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý gặp phải các đối tượng thích hợp hấp dẫn mà biểu hiện là sự khao khát, thích chiếm hữu hay muốn ôm ấp nắm giữ. Sân cũng là một hiện tượng tâm lý phát sinh khi con người không đạt được điều mình mong muốn hay gặp phải các đối tượng không thích hợp, không bằng lòng mà biểu hiện là sự giận dữ, bất mãn hay phản ứng gay gắt. Si cũng là một hiện tượng thuộc tâm lý hiện diện bởi sự mê mờ, thiếu giác tỉnh, tâm dao động, thiếu cân nhắc mà biểu hiện là sự u mê, không sáng suốt, cố chấp, không cởi mở. Như vậy, từ những định nghĩa khái quát về tham sân si vừa nêu, chúng ta có thể hiểu lý do vì sao khi ba độc tố này dính vào con người hay người nào thì những việc làm hay hành động của người ấy sẽ dẫn đến khổ đau. Tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu thêm các biểu hiện bất thiện của tham sân si và những biểu hiện hiền thiện của vô tham, vô sân, vô si để hiểu rõ hơn vì sao tham sân si dẫn đến khổ đau, trong khi vô tham, vô sân, vô si đưa đến an lạc.
“Người có tham, thưa Hiền giả, bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến hại mình, nghĩ đến hại người, nghĩ đến hại cả hai, cảm giác khổ ưu thuộc về tâm. Khi tham được đoạn tận, không nghĩ đến hại mình, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm giác khổ ưu thuộc về tâm.
Người có tham, thưa Hiền giả, bị tham chinh phục, tâm bị mất tự chủ, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Khi tham được đoạn tận, thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác.
Người có tham, thưa Hiền giả, bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ, không như thật rõ biết lợi mình, không như thật rõ biết lợi người, không như thật rõ biết lợi cả hai. Khi tham được đoạn tận, như thật rõ biết lợi mình, như thật rõ biết lợi người, như thật rõ biết lợi cả hai.
Tham, thưa Hiền giả, làm thành mù, làm thành không mắt, làm thành không trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần vào tổn não, không đưa đến Niết-bàn.
“Người có sân, thưa Hiền giả, bị sân chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến hại mình, nghĩ đến hại người, nghĩ đến hại cả hai, cảm giác khổ ưu thuộc về tâm. Khi sân được đoạn tận, không nghĩ đến hại mình, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm giác khổ ưu thuộc về tâm.
Người có sân, thưa Hiền giả, bị sân chinh phục, tâm bị mất tự chủ, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Khi sân được đoạn tận, thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác.
Người có sân, thưa Hiền giả, bị sân chinh phục, tâm mất tự chủ, không như thật rõ biết lợi mình, không như thật rõ biết lợi người, không như thật rõ biết lợi cả hai. Khi sân được đoạn tận, như thật rõ biết lợi mình, như thật rõ biết lợi người, như thật rõ biết lợi cả hai.
Sân, thưa Hiền giả, làm thành mù, làm thành không mắt, làm thành không trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần vào tổn não, không đưa đến Niết-bàn.
“Người có si, thưa Hiền giả, bị si chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến hại mình, nghĩ đến hại người, nghĩ đến hại cả hai, cảm giác khổ ưu thuộc về tâm. Khi si được đoạn tận, không nghĩ đến hại mình, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hại, không cảm giác khổ ưu thuộc về tâm.
Người có si, thưa Hiền giả, bị si chinh phục, tâm bị mất tự chủ, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Khi si được đoạn tận, thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác.
Người có si, thưa Hiền giả, bị si chinh phục, tâm mất tự chủ, không như thật rõ biết lợi mình, không như thật rõ biết lợi người, không như thật rõ biết lợi cả hai. Khi si được đoạn tận, như thật rõ biết lợi mình, như thật rõ biết lợi người, như thật rõ biết lợi cả hai.
Si, thưa Hiền giả, làm thành mù, làm thành không mắt, làm thành không trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần vào tổn não, không đưa đến Niết-bàn.
Thấy sự nguy hại này của tham, thưa Hiền giả, chúng tôi tuyên thuyết đoạn tận tham. Thấy sự nguy hại này của sân, thưa Hiền giả, chúng tôi tuyên thuyết đoạn tận sân. Thấy sự nguy hại này của si, thưa Hiền giả, chúng tôi tuyên thuyết đoạn tận si.”2
Như vậy câu trả lời của đức Phật cho vấn đề khổ đau và hạnh phúc đã rõ ràng. Do tham sân si chi phối mà con người nghĩ đến hại mình, hại người, hại cả hai; thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác; không như thật rõ biết lợi mình, lợi người, lợi cả hai. Tham sân si khiến con người trở thành mù lòa, có mắt mà như mù, tâm tư rối loạn, không còn sáng suốt, dự phần vào phiền não khổ đau, không hướng đến an lạc Niết-bàn. Nói cách khác, tham sân si là căn bản của bất thiện, là gốc rễ của khổ đau; do tham sân si mà con người làm đủ mọi thứ xấu xa, gây khổ đau cho chính mình và tạo khổ đau cho cuộc đời.
Tham sân si là gốc của khổ đau, thế nên khi tham sân si không còn, được diệt trừ, thì khổ đau sẽ chấm dứt. Nói khác đi, hạnh phúc xuất hiện bao lâu tham sân si vắng mặt.
Nhưng làm thế nào dứt trừ tham sân si? Câu hỏi thật căn bản nhưng hết sức tế nhị, bởi tham sân si là gốc rễ của khổ đau nhưng việc đoạn trừ chúng thì không dễ. Gia chủ Mahànàma từng nêu thắc mắc này với đức Phật.
“Bạch Thế Tôn, đã lâu rồi, con đã hiểu như thế này lời dạy của Thế Tôn: Tham là cấu uế của tâm, sân là cấu uế của tâm, si là cấu uế của tâm. Tuy vậy, đôi lúc các tham pháp chiếm cứ tâm con và an trú, các sân pháp chiếm cứ tâm con và an trú, các si pháp chiếm cứ tâm con và an trú. Bạch Thế Tôn, con tự suy nghĩ: “Pháp nào tự trong ta không đoạn trừ được, do vậy các tham pháp xâm nhập tâm ta và an trú, các sân pháp xâm nhập tâm ta và an trú, các si pháp xâm nhập tâm ta và an trú?”
Sau đây là câu trả lời của đức Phật cho gia chủ Mahànàma:
“Này Mahànàma, có một pháp trong Ông chưa được đoạn trừ, do vậy các tham pháp xâm nhập tâm Ông và an trú, các sân pháp xâm nhập tâm Ông và an trú, các si pháp xâm nhập tâm Ông và an trú. Và này Mahànàma, pháp ấy trong Ông có thể đoạn trừ được, nếu Ông không sống trong gia đình, nếu Ông không thụ hưởng các dục vọng.”
Lời dạy của đức Phật cho gia chủ Mahànàma ngụ ý rằng sở dĩ tham sân si khó đoạn trừ là do con người quá thiên nặng thụ hưởng các dục, không thấy được vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các dục. Nói khác đi, càng ham muốn thỏa mãn các dục lạc, nghĩa là sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, cảm xúc êm dịu và các danh vọng khác, thì tham sân si càng tăng trưởng, rất khó trừ diệt. Vì vậy, để diệt trừ tham sân si, gốc rễ của khổ đau, thì con người cần phải hạn chế lòng tham, cần phải tìm ra cách thức loại trừ tham dục.
Theo đức Phật, có hai cách để chế ngự và loại bỏ tham dục, cũng đồng nghĩa với việc loại bỏ tham sân si, hướng đến chấm dứt khổ đau. Cách thứ nhất là nhận thức vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của tham dục. Thứ hai là thực hành thiền định. Nói cách khác, muốn chế ngự và loại bỏ tham dục, con người cần phải tu thiền định và phát triển trí tuệ. Bởi thiền định Phật giáo bao hàm cả chỉ (samatha) và quán (vipassanà), nghĩa là có cả định (samàdhi) và tuệ (panõnõà), do đó khi nói đến hành thiền thì cũng có nghĩa là vừa tu thiền định vừa phát triển trí tuệ.
Thiền là phương pháp điều tâm, giúp tâm được an trú, không tán loạn, được tịnh chỉ, nhất tâm, hướng đến phát triển trí tuệ, thấy rõ pháp sanh diệt, dứt trừ phiền não tham sân si. Theo Buddhaghosa, thiền có nghĩa là lựa chọn một đối tượng rồi thiền tư trên đối tượng ấy, khiến cho có khả năng đốt cháy, thiêu hủy các pháp đối nghịch (tức các triền cái và các kiết sử phiền não). Như vậy thiền có chức năng cột chặt tâm vào một chỗ, khiến cho tâm tịnh chỉ, không chạy nhảy tán loạn. Cũng theo định nghĩa trên thì thiền có khả năng đốt cháy, thiêu hủy các ác pháp (tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi, thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham, sân, sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh) mà nói gọn là tham sân si. Như vậy, thiền vừa có chức năng làm tịnh chỉ tâm trí,, vừa có công năng làm sạch tâm trí, nghĩa là dọn sạch tham sân si ở trong tâm thức. Đây là pháp môn tu tập vừa nâng cao tâm hồn con người, khiến cuộc sống được trong sáng thanh cao, vừa giải thoát con người khỏi mọi đam mê dục vọng cùng với mọi ám ảnh và hành vi bất thiện bởi tham sân si.
Chúng ta đã đề cập tham sân si là gốc rễ của khổ đau, do tham sân si ám ảnh mà con người rơi vào những ý nghĩ lời nói hay việc làm sai quấy, gây khổ đau cho tự thân và cuộc đời. Chúng ta cũng đã nói đến tham dục là pháp chướng ngại, khiến tham sân si không ngừng sinh khởi và tăng trưởng, rất khó diệt trừ. Sau cùng chúng ta đã xem xét phương pháp giúp hạn chế và loại trừ tham dục, khiến tham sân si không có cơ hội sinh khởi, được diệt trừ, hướng đến chấm dứt khổ đau. Tất cả điều này được nêu đầy đủ và chi tiết trong giáo pháp của đức Phật và đang chờ chúng ta thực hành. Bởi có thực hành lời Phật dạy, chúng ta mới chế ngự được tham dục, dứt trừ được tham sân si, chấm dứt khổ đau. Có thực hành pháp môn của Ngài, chúng ta mới đạt được hạnh phúc an lạc, mới thấy hết giá trị lời đức Phật dạy.
Cuộc sống hiện đại có nhiều tiến bộ đáng mừng nhưng cũng báo hiệu những triệu chứng đầy lo ngại. Sự giàu có vật chất đi đôi với tình trạng sụt giảm đạo đức và bạo động gia tăng. Sự tiến bộ kỹ thuật hiện đại gắn liền với tình trạng chiến tranh và khủng bố lan rộng. Sự hưởng thụ xa xỉ của con người đi đôi với tình trạng thế giới thiên nhiên thay đổi nhanh chóng dẫn đến các hiểm họa hạn hán thiên tai động đất xảy ra liên tục ở nhiều nơi. Tất cả là hậu quả của sự tăng trưởng các độc tố tham sân si ở trong con người và mỗi người mà nền văn minh hiện đại chưa có giải pháp khắc phục. Đã có nhiều cảnh báo về nguy cơ lòng tham không đáy của con người đang dẫn thế giới loài người đến các hiểm họa khó lường. Tuy nhiên, người ta vẫn chưa tìm thấy giải pháp nào khả dĩ để chế ngự và khắc phục. Giữa lúc con người đang vui mừng về thành quả văn minh vượt trội của mình nhưng cũng đang bối rối lo lắng về hậu quả không sáng sủa của nền văn minh ấy và cố tìm cách khắc phục thì những lời dạy của đức Phật hiện rõ như kim chỉ nam cho con người và cuộc đời để vượt qua mọi khổ đau khủng hoảng.
Ý thức rõ tham sân si là gốc rễ của mọi khủng hoảng khổ đau, người Phật tử chúng ta sống nếp sống thoát ly tham sân si tức vừa xây dựng hạnh phúc an lạc cho chính mình, vừa góp phần tạo hạnh phúc an lạc cho cuộc đời. Chúng ta không cho rằng chỉ có con đường chúng ta theo là tuyệt đối đúng đắn. Nhưng chúng ta có quyền tin tưởng và vui mừng về nếp sống ly tham, ly sân, ly si của chính mình. Bởi đó chính là con đường mà bậc Đạo sư đã chỉ cho chúng ta và bởi thông qua nếp sống ấy chúng ta hưởng được hạnh phúc an lạc. Chúng ta không tự mãn về nếp sống ấy nhưng có thể tin tưởng mà nói rằng: “Bớt tham một chút bớt khổ cho đời; bớt sân một chút bớt khổ cho đời; bớt mê một chút bớt khổ cho đời.”
Người con Phật chúng ta hãy hoan hỷ với nếp sống nỗ lực ly tham, ly sân, ly si của chính mình và cùng nhắc nhở nhau nỗ lực nhiều hơn nữa để sống trọn với lời khuyên đầy từ tâm của bậc Đạo sư:
“Vui thay chúng ta sống, không tham giữa cuộc đời đầy tham;
Vui thay chúng ta sống, không sân giữa cuộc đời đầy sân;
Vui thay chúng ta sống, không chấp giữa cuộc đời đầy tranh chấp.”
HT. Thích Minh Châu
 Xem thêm: phật pháp ứng dụng - Phải chăng cuộc đời đã được lập trình sẵn?